
EVN cho biết là đã cắt giảm 10% chi phí sửa chữa lớn và tiết giảm chi phí nhưng không bù đắp được giá thành tăng - Ảnh: HỮU HẠNH
Dù ủng hộ việc "tính đúng, tính đủ" các chi phí hợp lý, hợp lệ vào giá điện như đề xuất tại dự thảo sửa đổi nghị định 72 của Chính phủ về cơ chế và thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân nhưng các chuyên gia cho rằng nếu chỉ dựa vào số liệu công bố về kết quả hoạt động kinh doanh trong
Bộ Công Thương đề xuất phân bổ khoản lỗ hàng chục ngàn tỉ đồng của EVN vào giá điện từ năm 2026 - Ảnh: TỰ TRUNG
Phải tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý, hợp lệ
Theo báo cáo của EVN, số lỗ lũy kế của EVN trong hai năm 2022 - 2023 là khoảng 50.029 tỉ đồng và đến hết năm 2024, số lỗ lũy kế của công ty mẹ EVN là 44.729 tỉ đồng.
Tại dự thảo sửa đổi nghị định 72 của Chính phủ về cơ chế và thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân vừa được Bộ Tư pháp để thẩm định, Bộ Công Thương khẳng định cần thiết sửa đổi nghị định 72 nhằm giúp doanh nghiệp thu hồi đủ các chi phí hợp lý, hợp lệ trong sản xuất kinh doanh điện, bảo đảm chi phí được tính toán trong giá bán lẻ điện được rõ ràng, công khai, minh bạch, khả thi.
Theo dự thảo, nếu các chi phí hợp lý, hợp lệ không được tính toán để thu hồi trong giá điện, sẽ không bù đắp được kịp thời phần vốn đầu tư nhà nước giảm.
Tỉ trọng nguồn điện giá rẻ giảm, nguồn điện giá cao tăng?
Theo EVN, trong năm 2022, chỉ số giá than nhập NewC bình quân tăng 3,65 lần và năm 2023 tăng 1,73 lần so với bình quân giai đoạn 2020 - 2021. Có những thời điểm chỉ số NewC tăng lên 440 USD/tấn.
Trong khi đó, giá than trong nước mua từ TKV, TCT Đông Bắc cao hơn khoảng 35 - 46% (tùy từng loại than) so với năm 2021. Năm 2023, nhiều nhà máy điện sử dụng than x.10 sang than x.14 có giá cao hơn khoảng 170.000 đồng/tấn.
Trong năm 2022, giá dầu thô Brent bình quân tăng 1,79 lần và năm 2023 tăng 1,46 lần so với bình quân giai đoạn 2020 - 2021. Tương tự, dầu HFSO tăng lần lượt là 1,58 lần và 1,38 lần so với bình quân giai đoạn 2020 - 2021.
Trữ lượng khí Lô 06.1 giá rẻ thuộc bể Nam Côn Sơn suy giảm mạnh nên phải tiếp nhận nhiều khí Hải Thạch - Mộc Tinh, Sao Vàng - Đại Nguyệt và Đại Hùng, Thiên Ưng có giá cao hơn nhiều.
Trong khi đó, giá thành khâu phát điện chiếm tỉ trọng tới 83% giá thành điện, các khâu còn lại (khâu truyền tải, phân phối - bán lẻ, quản lý ngành - phụ trợ) chiếm tỉ trọng khoảng 17% giá thành điện, nên dù có xu hướng giảm dần qua các năm vẫn không đủ bù đắp các chi phí phát sinh tăng thêm.
Cũng trong giai đoạn này, tỉ trọng các nguồn điện giá rẻ giảm, thay vào đó là các nguồn điện có giá cao tăng lên. Cụ thể, thủy điện là nguồn có giá mua điện rẻ với tỉ trọng giảm từ 38% năm 2022 xuống còn 30,5% năm 2023 trong cơ cấu sản lượng điện mua. Năng lượng tái tạo chiếm khoảng 13,9 - 14,2%; nhập khẩu chiếm 3,2 - 3,7% cơ cấu điện.
Nhiệt điện than chiếm 35,5% năm 2022 và tăng lên 43,7% vào năm 2023. Nhiệt điện khí chiếm khoảng 10 - 11% cơ cấu sản lượng điện mua, khiến cho tổng nguồn nhiệt điện từ 46,6% năm 2022 đã tăng lên 53,7% năm 2023, là nguồn chịu ảnh hưởng của giá nhiên liệu đầu vào (than, dầu, khí).
