Phóng viên: Hiện nay, rất nhiều khách hàng gửi tiền và vay tiền tại các tổ chức tín dụng hay nhầm lẫn giữa bảo hiểm tiền gửi và bảo hiểm thương mại, dưới góc độ là người điều hành QTDND Phú Hòa - là thành viên của tổ chức Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, theo ông đâu là sự khác biệt của hai loại hình bảo hiểm này?
ThS. Võ Thanh Nhàn: Tôi có thể khẳng định rằng, giữa bảo hiểm tiền gửi (BHTG) và bảo hiểm thương mại (BHTM) có sự khác nhau hoàn toàn, đó là:
Thứ nhất, nếu người dân phải trả phí khi tham gia BHTM thì đối với BHTG - một chính sách công mang tính xã hội cao của Nhà nước, người gửi tiền tại tổ chức tín dụng (TCTD) đã tham gia BHTG không phải mất phí, nhưng vẫn được đảm bảo quyền lợi theo quy định của pháp luật. Đây là một trong những sự khác nhau cơ bản giữa hai loại hình cùng gọi là “bảo hiểm” này.
Tại Việt Nam, BHTG Việt Nam là tổ chức duy nhất được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách BHTG có ý nghĩa xã hội sâu rộng hơn thông qua việc bảo vệ hàng chục triệu người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG - bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tài chính vi mô. Chính sách BHTG giúp bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi TCTD gặp sự cố, đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh; từ đó củng cố niềm tin của người dân, góp phần duy trì an ninh tài chính quốc gia, đặc biệt khi xảy ra khủng hoảng.
Thứ hai, về cơ sở pháp lý, BHTM là giao dịch dân sự dựa trên hợp đồng giữa người mua và công ty bảo hiểm. Khách hàng có quyền lựa chọn tham gia hoặc không. Còn BHTG là chính sách bắt buộc đối với các TCTD có nhận tiền gửi bằng VND của cá nhân. Theo đó, ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, QTDND, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tài chính vi mô phải tham gia BHTG. Người gửi tiền được bảo vệ tự động khi gửi tiền tại các tổ chức này.
Thứ ba, đối tượng tham gia và được bảo vệ đối với BHTM là khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp), họ tham gia, đóng phí và được bảo vệ theo hợp đồng.
Còn với BHTG, đối tượng tham gia là các ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, QTDND, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tài chính vi mô là tổ chức tham gia BHTG và phải đóng phí cho BHTG Việt Nam. Người gửi tiền là đối tượng được bảo vệ, mà không cần phải đóng phí BHTG.

ThS. Võ Thanh Nhàn, Giám đốc Quỹ tín dụng nhân dân Phú Hòa (QTDND Phú Hòa)
Nói tóm lại, BHTM và BHTG, dù cùng có tên gọi “bảo hiểm” nhưng lại hướng đến phục vụ những mục đích khác nhau. Trong đó BHTM là sự lựa chọn cá nhân, giúp chúng ta bảo vệ sức khỏe, tài sản, hay kế hoạch tài chính trước các rủi ro cụ thể trong cuộc sống. Còn BHTG là chính sách công của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính - ngân hàng.
Hiểu rõ những nét khác biệt cơ bản giữa hai loại hình này sẽ giúp người dân có thể đưa ra quyết định tài chính đúng đắn. Khi gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền có thể yên tâm vì đã có BHTG Việt Nam bảo vệ quyền lợi hợp pháp.
Với BHTM, hãy chủ động lựa chọn gói dịch vụ phù hợp, đọc và giữ kỹ hợp đồng, các chứng từ liên quan để đảm bảo quyền lợi của bản thân nếu phát sinh yêu cầu bồi thường.
BHTM và BHTG đều đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Do đó, khi người dân chủ động tìm hiểu và hiểu đúng về lợi ích hai mô hình bảo hiểm này mang lại sẽ yên tâm hơn khi gửi tiền tại các TCTD, cũng như hoạch định cho bản thân nền tảng vững chắc về an toàn tài chính.
Phóng viên: Vai trò của tổ chức BHTG đã được khẳng định như thế nào kể từ khi Luật Bảo hiểm tiền gửi có hiệu lực thi hành (ngày 1/1/2013) đến nay, thưa ông?
ThS.Võ Thanh Nhàn: Đã hàng chục năm qua, vai trò của tổ chức BHTG ngày càng được khẳng định là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD và bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Vai trò này không chỉ thể hiện qua các hoạt động nghiệp vụ thường xuyên mà còn qua việc tham gia quá trình cơ cấu lại các TCTD yếu kém, đặc biệt là trong bối cảnh xử lý các QTDND bị kiểm soát đặc biệt hiện nay đặt ra nhiều thách thức.
Theo báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến ngày 31/12/2024 có 1.277 tổ chức tham gia BHTG, gồm 96 NHTM và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng hợp tác xã, 1.176 QTDND và 4 tổ chức tài chính vi mô. Số người được BHTG tăng mạnh từ hơn 30 triệu lượt người vào tháng 6/2013 lên hơn 127 triệu lượt vào tháng 12/2024. Số phí BHTG cũng tăng mạnh tương ứng từ 2.806 tỷ đồng lên 12.346 tỷ đồng trong thời gian tương ứng. Với hạn mức trả tiền bảo hiểm là 125 triệu đồng, tại thời điểm tháng 12/2024 có thể bảo vệ toàn bộ 92,46% số người được bảo hiểm tại Việt Nam.
Tuy nhiên, tỷ lệ số dư tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm ở Việt Nam mới chỉ đạt 8,38%, thấp hơn nhiều so với trung bình trên toàn cầu là 47%... Luật Bảo hiểm tiền gửi được ban hành vào tháng 6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013. Theo NHNN, sau 12 năm thực hiện Luật BHTG, một số vướng mắc đã phát sinh. Vì vậy, cần được sửa đổi, bổ sung để khắc phục những bất cập trong thực tiễn triển khai, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Phóng viên: Nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong hoạt động BHTG, Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến về dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi). Dưới góc nhìn thực tiễn, theo ông, những điểm mới trong dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) lần này là gì?
ThS.Võ Thanh Nhàn: Hiện NHNN đang lấy ý kiến về dự thảo Luật BHTG. Theo tờ trình của NHNN, sau 12 năm thực hiện Luật BHTG, một số vướng mắc đã phát sinh.
Đặc biệt, phí BHTG cần được sửa đổi, bổ sung để khắc phục những bất cập trong thực tiễn triển khai. Đồng thời, hạn mức trả tiền bảo hiểm, thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cũng cần được quy định lại cho phù hợp và đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Hiện hạn mức trả tiền BHTG là 125 triệu đồng. Theo NHNN, với hạn mức này, tỷ lệ số dư tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm ở Việt Nam mới chỉ đạt 8,38%, thấp hơn nhiều so với trung bình trên toàn cầu là 47%; Tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm của toàn hệ thống là 92,43%. Tuy nhiên, nếu loại trừ lượng người gửi tiền có số dư từ 1 - 50.000 đồng thì tỷ lệ này chỉ ở mức 87,89%, thấp hơn so với mức được Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI) khuyến nghị là 90 - 95%.
Ngoài ra, quy định về thời điểm chi trả tiền gửi được bảo hiểm hiện nay chưa đảm bảo tính kịp thời, chưa có cơ sở để BHTG thực hiện chi trả tiền gửi sớm hơn, ngay khi TCTD xảy ra sự kiện có nguy cơ gây mất an toàn hệ thống. Việc tổ chức BHTG chỉ có thể thực hiện chi trả tiền gửi sau khi TCTD đã có quyết định phá sản, sẽ không đảm bảo được vai trò của BHTG trong việc ổn định tâm lý người gửi tiền, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ, bảo vệ tốt nhất quyền lợi người gửi tiền.
Dự thảo Luật bổ sung quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về BHTG của Bộ Tài chính, về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại tổ chức BHTG, cho vay đặc biệt, hỗ trợ chi trả tiền gửi cho người gửi tiền, nguyên tắc xử lý khoản vay đặc biệt, tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng trong hoạt động của TCTD, điều khoản chuyển tiếp.
Đồng thời, bãi bỏ một số quy định về thủ tục hành chính, lược bỏ quy định tiền gửi được bảo hiểm bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu.
Dự thảo Luật cũng bổ sung nhiều quy định nhằm tăng cường phân cấp, phân quyền cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, dự thảo Luật điều chỉnh nội dung phân quyền cho Thủ tướng Chính phủ quy định mức phí BHTG, quy định việc áp dụng phí BHTG đồng hạng hoặc phân biệt phù hợp với đặc thù hệ thống TCTD Việt Nam trên cơ sở đề nghị của NHNN; bổ sung quy định giao Thủ tướng Chính phủ quyết định hạn mức chi trả toàn bộ các khoản tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG theo đề nghị của NHNN.
Dự thảo Luật bổ sung nội dung phân quyền cho NHNN quyết định cho vay đặc biệt BHTG; phân cấp nhiệm vụ từ NHNN cho BHTG, theo đó BHTG thực hiện kiểm tra tổ chức tham gia BHTG theo kế hoạch, nội dung do NHNN ủy quyền.
Về trả tiền bảo hiểm, dự thảo Luật quy định thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kể từ một trong các thời điểm, sau: (i) Phương án phá sản TCTD được phê duyệt hoặc NHNN có văn bản xác nhận chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền; (ii) NHNN có văn bản đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của TCTD được kiểm soát đặc biệt để tổ chức BHTG chi trả cho người gửi tiền khi TCTD có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ; (iii) Thuộc trường hợp chi trả trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 40 Luật này.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật điều chỉnh thời hạn trả tiền bảo hiểm theo hướng sớm hơn so với quy định tại Luật hiện hành, bổ sung quy định trong trường hợp đặc biệt Thủ tướng Chính phủ quyết định chi trả toàn bộ các khoản tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của NHNN. Các quy định nêu trên hướng tới mục tiêu phát huy vai trò của tổ chức BHTG trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống.
Tổ chức BHTG được sử dụng nguồn vốn hoạt động để mua, bán trái phiếu của Chính phủ, tín phiếu NHNN; mua, bán trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi do các NHTM có vốn nhà nước, NHTM cổ phần có vốn doanh nghiệp nhà nước trên 50% vốn điều lệ phát hành; gửi tiền tại NHNN Việt Nam, các NHTM có vốn nhà nước, NHTM cổ phần có vốn doanh nghiệp nhà nước trên 50% vốn điều lệ; hoạt động đầu tư khác theo quy định của Chính phủ.
Dự thảo Luật bổ sung một chương riêng quy định việc tổ chức BHTG tham gia xử lý TCTD, tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng trong hoạt động của TCTD. Theo đó, tổ chức BHTG thực hiện cho vay đặc biệt tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức tham gia BHTG bị rút tiền hàng loạt, cho vay đặc biệt tổ chức tham gia BHTG được kiểm soát đặc biệt để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc.
Bên cạnh đó, theo đúng nguyên tắc của hoạt động BHTG, tổ chức BHTG được hạch toán giảm quỹ dự phòng nghiệp vụ đối với số tiền cho vay đặc biệt không thu hồi được.
Thực tiễn cho thấy, khi phát sinh rủi ro có nguy cơ lan truyền ảnh hưởng tới an toàn hệ thống, nếu không có ngay các biện pháp nhanh chóng, kịp thời để ổn định tâm lý người gửi tiền sẽ dẫn tới một sự đổ vỡ dây chuyền nhanh chóng và khó có khả năng khắc phục.
Để ứng phó khủng hoảng cần có một cơ chế tổng thể của nhiều biện pháp, trong đó có sự tham gia của tổ chức BHTG. Do đó, dự thảo Luật quy định: trường hợp phát sinh sự cố, khủng hoảng có nguy cơ gây mất an toàn hệ thống TCTD, tổ chức BHTG tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng.
Chính phủ được quyết định trường hợp phát sinh sự cố, khủng hoảng và các biện pháp cần thiết, bao gồm cả các biện pháp khác luật để xử lý sự cố, khủng hoảng và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Việc nâng cao năng lực tài chính cho tổ chức BHTG là điều kiện tiên quyết để bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và giữ vững an toàn hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh kinh tế ngày càng biến động, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức BHTG để xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh, thích ứng và phát triển bền vững.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!