Loại Nhật, chốt Trung Quốc làm đường sắt cao tốc số 1 hơn 7 tỷ USD rồi ‘quay xe’ nhờ Nhật cho tuyến số 2, láng giềng Việt Nam có chiến lược công nghệ gì?

Láng giềng Việt Nam chọn công nghệ Trung Quốc và Nhật Bản cho 2 tuyến đường sắt cao tốc.

Vào tháng 10/2023, đường sắt cao tốc Jakarta - Bandung dài khoảng 140 km nối thủ đô Jakarta với thủ phủ Bandung của tỉnh Tây Java Indonesia chính thức hoạt động thương mại. Đây là đường sắt cao tốc đầu tiên tại Indonesia và cả Đông Nam Á.

Thực tế, dự án này dự kiến ban đầu sẽ đi vào hoạt động vào năm 2019 nhưng đã gặp phải vấn đề về giải phóng mặt bằng và chậm tiến độ xây dựng do Covid-19.

Theo Nikkei Asia, thời điểm đấu thầu, Nhật Bản và Trung Quốc rất quyết liệt muốn xây dựng tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên của Indonesia. Cả hai ông lớn châu Á đều đưa ra các thỏa thuận hấp dẫn để có bằng được dự này.

Tuy nhiên, vào năm 2015, Indonesia chính thức ký kết với Trung Quốc để xây đường sắt cao tốc đầu tiên với lý do kế hoạch của Trung Quốc sẽ không đặt bất kỳ gánh nặng tài chính nào lên ngân sách nhà nước.

Tuyến đường sắt cao tốc này có tốc độ vận hành tối đa là 350 km/h, thời gian di chuyển trên toàn bộ tuyến chỉ trong vòng 36 phút. Dự án có trị giá 7,3 tỷ USD, phần lớn do Trung Quốc tài trợ, được xây dựng bởi liên doanh PT Kereta Cepat Indonesia-Trung Quốc, hay còn gọi là PT KCIC, giữa một tập đoàn gồm bốn công ty nhà nước của Indonesia và Công ty TNHH Đường sắt Quốc tế Trung Quốc.

Theo Lowy institute, tuyến đường sắt Jakarta-Bandung có giá 52 triệu USD một km, cao hơn đường sắt cao tốc ở Trung Quốc (dao động từ 17–30 triệu USD một km), Pháp (khoảng 24 triệu USD một km) hoặc Tây Ban Nha (27 triệu USD một km). Tuy nhiên, các biến số như độ phức tạp của địa hình và mật độ dân số trong khu vực dự án cũng thúc đẩy mức giá của dự án.

Sau đó, Indonesia lên kế hoạch làm đường sắt cao tốc thứ 2. Vào 13/5/2024, Chính phủ Nhật Bản thông báo sẽ cung cấp khoản vay khoảng 140,7 tỷ yen (900 triệu USD) để xây dựng tuyến đường sắt cao tốc thứ 2 tại thủ đô Jakarta của Indonesia.

Theo Đại sứ quán Nhật Bản tại Indonesia, việc xây dựng dự án tuyến đường sắt Đông - Tây dài 84,1 km gồm 2 giai đoạn với giai đoạn đầu trên tuyến đường dài 24,5 km dự kiến bắt đầu vào năm 2026 và sẽ hoàn tất trong năm 2031. Đáng chú ý, tuyến đường sắt mới sẽ được xây dựng bằng công nghệ Nhật Bản dành cho tàu và hệ thống báo hiệu.

Việc sử dụng công nghệ của các nước khác nhau sẽ giúp Indonesia học thêm công nghệ mới, tránh phụ thuộc vào một nguồn công nghệ nhất định. Cùng với đó, việc tiếp nhận nhiều nguồn công nghệ đường sắt sẽ giúp Indonesia dần hướng tới phát triển công nghệ đường sắt của riêng mình, theo Railway Technology.

Hiện nay, Trung Quốc và Nhật Bản đều là những nước có công nghệ đường sắt cao tốc hiện đại nhất thế giới.

Tập đoàn cục điện khí hóa xây dựng đường sắt Trung Quốc cho biết, nước này sở hữu phương pháp xây dựng tự động hiện đại hàng đầu thế giới. Công nghệ này đã được thử nghiệm và thông qua để sử dụng trong các công trình đường sắt cao chất lượng cao.

Trong đó, việc triển khai robot xây dựng đường sắt điện khí hóa trên cao ở quy mô lớn là một cột mốc quan trọng trong ngành công nghiệp, chứng minh máy móc có thể đảm nhiệm phần lớn công việc tốn sức lao động, bao gồm xây dựng đường sắt cao tốc.

Xây dựng đường sắt bao gồm nhiều công việc như đào đất, ủi đất, đặt đường ray, xây dựng cầu và đường hầm, lắp hệ thống báo hiệu và liên lạc. Đây là cơ sở hạ tầng tốn kém, đòi hỏi lượng lớn lao động chân tay cũng như chuyên gia có trình độ và kỹ năng. Nhiều năm trước đây, dự án đường sắt là công việc rất nguy hiểm.

Với Nhật Bản, công nghệ HSR (Shinkansen) cũng rất nổi tiếng. Hệ thống tàu cao tốc của Nhật Bản được kết hợp bởi phần cứng và hệ thống phần mềm, bao gồm đường ray xe lửa tốc độ cao được thiết kế đặc biệt, hệ thống điều khiển tàu tự động (ATC) và quản lý lịch trình tàu tự động, để đảm bảo tàu chạy đúng giờ.

Sự kết hợp cẩn thận giữa phần cứng và phần mềm cho phép thiết bị này - kết hợp với các kỹ năng kỹ thuật tinh xảo của người vận hành - kiểm soát tàu đến từng giây và đảm bảo độ chính xác và độ tin cậy trong quá trình vận hành. Do đó, hệ thống này giúp tàu có thể chạy với khoảng cách rất hẹp, không bị chậm trễ theo lịch trình, trung bình thời gian chạy tàu chưa đến một phút.