Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 3: Thử nghiệm liệu pháp nhắm trúng đích

Bà Cheryl Bonder (năm nay 65 tuổi) ở bang New Jersey, Mỹ là mẹ hai cô con gái trưởng thành. Câu chuyện của bà bắt đầu vào đầu những năm 2000 khi đi nghỉ hè, tiếp xúc nắng mặt trời thì phát triển phản ứng tự miễn dịch với thuốc kháng sinh.
ung thư - Ảnh 1.

Bà Cheryl Bonder (trái) và bác sĩ y khoa Gail Roboz - Ảnh: weillcornell.org

Tìm đến thuốc thử nghiệm lâm sàng PU-H71

Bà được chẩn đoán mắc bệnh viêm mạch mề đay (các mạch máu nhỏ trên da bị viêm gây ra nhiều mảng đỏ và nổi mề đay ngứa). Căn bệnh hiếm hạn chế lưu thông máu, có thể gây tổn thương các cơ quan và các mô nên ba tháng một lần bà phải đi xét nghiệm máu kiểm tra xem có gì bất thường. 

Bà kể: "Một ngày nọ, công thức máu tôi có vấn đề bất thường. Bác sĩ khuyên đi khám bác sĩ huyết học".

Sau khi gặp nhiều bác sĩ chuyên khoa, năm 2013 bà đến gặp nữ bác sĩ Gail Roboz - giáo sư y khoa kiêm giám đốc Chương trình Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 2: Liệu pháp miễn dịch của TS James AllisonĐỌC NGAY

Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 1: Người tiên phong dùng hóa trị chữa ung thưĐỌC NGAY

Nếu áp dụng hóa trị thông thường, bà có thể sống thêm vài tháng, nhưng bà nói: "Tôi không chịu đựng nổi ý nghĩ con mình phải đối mặt với cái chết của tôi đau đớn như vậy. Tôi đã nguyện cầu có thể ra đi thanh thản". 

Bác sĩ Roboz giải thích: "Bệnh của bà Bonder các loại thuốc có sẵn không tác dụng. Lúc đó tôi bắt đầu tìm đến thuốc thử nghiệm lâm sàng".

Bác sĩ Roboz liên hệ bác sĩ y khoa Juan Miguel Mosquera - giáo sư bệnh lý học và xét nghiệm y học, đồng thời là giám đốc bệnh lý học tại Viện Y học chính xác Englander. Bác sĩ Mosquera cho biết các nhà sinh học tính toán đã phân tích bộ gene bà Bonder và xác định đã xảy ra quá trình dung hợp gene mới (hai gene ở xa nhau pha trộn nhau). 

May mắn cho bà là Trường Y khoa Weill Cornell đang thử nghiệm loại thuốc có thể phù hợp bệnh trạng bà. Thuốc được gọi là PU-H71 đã được TS Gabriela Chiosis tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering hợp tác với TS Monica Guzman ở Trường Y khoa Weill Cornell phát triển.

Thuốc PU-H71 nhắm đến mục tiêu tấn công một mạng lưới protein phức tạp được gọi là epichaperome giữ vai trò ổ chứa dung dưỡng tế bào ung thư. Trong nghiên cứu công bố trên tạp chí Nature năm 2016, TS Chiosis, TS Guzman và đồng nghiệp lần đầu mô tả mạng lưới epichaperome và lưu ý epichaperome đã hiện diện trong hơn 50% khối u mà họ thử nghiệm.

Khổ nỗi nhiều thử nghiệm lâm sàng các loại thuốc ức chế epichaperome lại không cho kết quả tốt. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu tin rằng thuốc thử nghiệm sẽ thành công hơn nếu sàng lọc bệnh nhân tốt hơn, tức xác định được mức độ nhạy cảm của loại ung thư cụ thể khi thuốc nhắm mục tiêu vào epichaperome. Từ đó họ đã phát triển một cách xét nghiệm mới được gọi là kỹ thuật xét nghiệm tế bào dòng chảy (phát hiện và đếm tế bào bằng laser) để đánh giá mức độ epichaperome.

Kết quả cho thấy các tế bào của bà Bonder có mức độ epichaperome cao. Khi thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, chúng phản ứng ngay lập tức với thuốc PU-H71. 

Vấn đề trục trặc ở chỗ thuốc PU-H71 đang trong giai đoạn đầu của thử nghiệm lâm sàng nên chưa được phép sử dụng cho bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu. Bác sĩ Roboz phải xin phép Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) cho phép sử dụng thuốc PU-H71 vì mục đích nhân đạo.

ung thư - Ảnh 2.

TS sinh học hóa học Gabriela Chiosis tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering - Ảnh: mskcc.org

Tôi đã nói tôi không còn gì để mất và khoa học sẽ được tất cả. Tôi sẽ thử.
CHERYL BONDER

Bệnh ung thư đáp ứng tốt với thuốc PU-H71

Đến lúc đó, nhóm nghiên cứu vẫn còn nhiều điều chưa biết: Bà Cheryl Bonder cần thời gian điều trị bao lâu? Liều lượng và lịch trình điều trị như thế nào? Còn các tác dụng phụ thì sao?

Sau khi bác sĩ Roboz giải thích đây là trường hợp tin tưởng mà không cần chứng cứ chứng minh, bà Bonder quyết định tham gia thử nghiệm. 

Bà kể: "Tôi đã nói tôi không còn gì để mất và khoa học sẽ được tất cả. Tôi sẽ thử". 

Bà giải thích: "Tôi quyết định tiếp tục điều trị vì tôi còn hai con gái nhỏ. Tôi biết cuộc sống thiếu vắng mẹ như thế nào và tôi không thể làm điều đó với các con. Tôi phải làm mọi cách để cố tự cứu mình".

Bác sĩ Roboz và TS Guzman đã phát triển phác đồ điều trị riêng cho bà. Họ điều chỉnh phác đồ liều lượng phù hợp với mức epicaperome đo được trong máu bà chỉ vài giờ trước mỗi lần điều trị. Sáu tuần sau khi bắt đầu liệu trình điều trị mới, bệnh tình bà thuyên giảm. 

Bà ngạc nhiên thốt lên: "Đúng là phép màu. Tôi không biết phải diễn tả thế nào". 

Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 3: Thử nghiệm liệu pháp nhắm trúng đích - Ảnh 3.

Các tế bào bệnh bạch cầu tủy cấp tính dưới kính hiển vi - Ảnh: health.ucsd.edu

Theo Viện Y tế quốc gia (NIH), liệu pháp nhắm trúng đích là phương pháp điều trị ung thư nhắm vào các protein kiểm soát quá trình phát triển, phân chia và lây lan của các tế bào ung thư. Đây là nền tảng của y học chính xác.

Liệu pháp nhắm trúng đích gồm nhiều loại. Phần lớn là thuốc phân tử nhỏ hoặc kháng thể đơn dòng. Thuốc phân tử nhỏ là thuốc có thể đi vào bên trong tế bào ung thư nhằm tiêu diệt mục tiêu bên trong tế bào. Kháng thể đơn dòng (hay kháng thể điều trị) là các protein được sản xuất trong phòng thí nghiệm, được thiết kế để bám lấy mục tiêu trên tế bào ung thư.

Một số kháng thể đơn dòng làm nhiệm vụ đánh dấu tế bào ung thư để hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt. Một số kháng thể đơn dòng khác trực tiếp ngăn chặn tế bào ung thư tiến triển hoặc khiến chúng tự hủy. Một số khác mang "độc tố" đến đầu độc tế bào ung thư.

----------------------------

Không ít bệnh nhân được chẩn đoán ung thư giai đoạn cuối và chỉ còn sống thời gian ngắn. Song họ may mắn tìm thấy phép màu trong quá trình điều trị. Họ đã có thể sống có ý nghĩa hơn trong phần đời còn lại.

Kỳ tới: Phép màu cho người ung thư giai đoạn cuối

Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 3: Thử nghiệm liệu pháp nhắm trúng đích - Ảnh 4.Cuộc chiến trường kỳ chống ung thư - Kỳ 2: Liệu pháp miễn dịch của TS James Allison

Trước khi liệu pháp miễn dịch ra đời, các bác sĩ ung thư chỉ biết ba phương pháp điều trị chủ chốt gồm phẫu thuật, xạ trị và hóa trị, hay còn được gọi nôm na là "cắt", "đốt" và "thuốc độc".

Đọc tiếp Về trang Chủ đề